10 PHÁT MINH ĐÁNG GHI NHỚ TRONG 10 NĂM QUA Posts by : STEVE THAI

   Y khoa tiến bộ không ngừng từ giữa thế kỷ 20 cho đến nay giúp cho sức khỏe của chúng ta tốt hơn khiến tuổi  thọ của chúng ta gia tăng rất nhiều so với   các thế hệ ông cha. Có rất nhiều phát minh mới về thuốc men, kỹ thuật và phòng thí nghiệm.

   Các khoa học gia đủ mọi ngành, làm việc liên tục trong các phòng nghiên cứu, thí nghiệm, bệnh viện ngày đêm để lo về sức khỏe của chúng ta, nhưng chúng ta thường vô tình không để ý.

   Bây giờ là năm 2006, chúng ta nhìn lai 10 năm về trước tức là năm 1996 để kiểm điểm những phát minh nào đáng ghi nhớ trong lãnh vực y khoa trong khoảng thời  gian đó, đã giúp chúng ta sống lâu hơn, “thọ” hơn.

   1. Thuốc chích ngừa ung thư cổ tử cung
   Thuốc GARDASIL, mới được cơ quan kiểm soát thuốc và thực phẩm  (FDA) chấp thuận năm nay, của viện bào chế Merck, để chống lại  Human papilloma virus (HPV) là siêu vi khuẩn có liên hệ rất nhiều với  ung thư cổ tử cung cũng như các mụt cóc (warts) gần nơi các bộ phận sinh dục. Ung thư cổ tử cung là ung thư gây ra tử vong nhiều nhất cho phụ nữ khắp thế giới.

   Cơ quan kiểm soát bệnh tật (CDC:Center for Disease Control) phỏng đoán rằng đến tuổi 50, gần 80% phụ nữ đều bị nhiễm HPV.

   Thuốc GARDASIL được chấp thuận để chích ngừa cho những người  nữ từ 9 đến 26 tuổi.  Thuốc chích ngừa này có thể mở đường cho nhiều thuốc chích ngừa các bệnh ung thư khác nữa.

   2. Thuốc chích ngừa ROTATEQ và ROTAVIX
   Các thuốc chích ngừa này có thể cứu mạng sống của hàng triệu trẻ em mỗi  năm, nhất là các trẻ em ở Phi châu, Á châu , Nam và Trung Mỹ.

   Siêu vi khuẩn Rotavirus gây ra bệnh ói mửa và tiêu chảy, thường xảy ra ở các xứ chậm tiến nói trên và là nguyên nhân gây tử vong đứng vào hàng thứ 3 ở các xứ đó, chỉ đứng sau bệnh AIDS và sốt rét.  Năm 2005 Rotavirus đã làm thiệt mạng 3.1 triệu trẻ em.

   3. Giải thể những bí mật của DNA (Deoxyribonucleic acid)
   Tìm được chìa khóa để giải   thể các bí mật của DNA, chất hóa học cấu tạo ra tế bào của mọi  sinh vật, mỗi   sinh vật có 1 DNA riêng biệt, là một cuộc cách mạng khoa học đẩy mạnh sự nghiên cứu để tìm thuốc điều trị cho các bệnh hiện nay được xem như là nan y. Thí dụ: bệnh mất trí nhớ   (Alzheimer) bệnh cystic fibrosis (xơ hóa nang) và nhiều bệnh ung thư khác.

   4. Thuốc TPA (Tissue pasminogen activor) chống sự đông máu. 
  Theo hiệp hội  về tim của Hoa kỳ (American Heart Association) thì cứ mỗi 45 giây  có 1 người Mỹ bị tai biến mạch máu não (stroke).

   Viện bào chế Genetech đã tung ra thị trường thuốc ACTIVASE  để ngăn bớt hậu quả của bệnh tai biến mạch máu não như: chết liền, mê man, bại xụi chân tay.  Thuốc này cũng làm tan các nơi  nghẽn (blockage) của các mạch máu nuôi tim gây ra nhồi  máu cơ tim (heart attack)

   Nếu thuốc Activase được chích kịp thời cho bệnh nhân trong vòng 3 tiếng đồng hồ sau khi bị tai biến mạch máu não, thì bệnh nhân có thể sống sót và không bị bại  liệt tứ chi.

   5. Thuốc BOTOX
   Thuốc Botox do viện bào chế Allergan  lấy từ chất độc Botuline, một chất độc có thể gây chết người trong các vụ ngộ độc do thức ăn.  Thuốc này được tung ra thị trường giữa thập niên 90 để dùng trong các cuộc giải  phẫu thẩm mỹ để làm căng da, mất vết nhăn, nhất là da mặt.

   Những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã khám phá và thấy thuốc Botox rất có hiệu quả trong việc điều trị bệnh Migraine (thiên đầu thống, nhức đầu đông?!) một bệnh rất khó điều trị mà làm cho nhiều bệnh nhân, phần đông là phụ nữ, không làm được những công việc hằng ngày ở văn phòng hay ở nhà.

   6. Phương pháp giải phẫu LASIK bằng tia sáng Laser.
   Phương pháp Lasik này làm cho giác mạc (cornea) của mắt thay đổi  cấu trúc để giúp cho những người bị bệnh về thị giác nhìn rõ hơn.  Lasik đã được FDA chấp thuận năm 1998 đã giúp cho hàng triệu người  nhìn rõ hơnmà không cần phải mang kính hay 
contact lenses.


   7. Thuốc  VIAGRA
   Thuốc Viagra (bây giờ đã quá nổi  tiếng, đã đi vào những câu chuyện đùa cợt trong các buổi trà dư tửu hậu) để trị bệnh bất lực, và đã được cựu thượng nghị sĩ và đã là ứng cử viên tổng thống Hoa kỳ Bob Dole quãng cáo trên TV dạo nào.

   Viagra do hãng Pfizer tung ra thị trường năm 1998 và giúp cho stock của Pfizer tăng vọt và đã được xem là thần dược và là viên thuốc “phục thù” của nam giới, làm cho những người  đàn  ông lớn tuổi  có thể “ngửng đầu” nhìn thẳng, để chống lại  với viên thuốc ngừa  thai của thập niên 60. Thời gian của  thập niên 60 được xem là giai đoạn cách mạng của phụ nữ để không  có thai nếu không muốn và để hưởng thụ tuổi xuân mà không phải mang nặng đẻ đau  nhiều. 

   Hiện nay trên thị trường này còn có thuốc LEVITRA và thuốc CIALIS (thuốc Cialis còn gọi là “thuốc cuối tuần” vì  có  tác dụng kéo dài đến 36 giờ, từ chiều thứ 6 đến sáng Chủ nhật thuốc Cialis vẫn còn hiệu nghiệm. Nhưng các thuốc nói trên chỉ để cho đàn ông dùng mà thôi, nên hiện nay các nhà khoa học đang nghiên cứu thuốc cho phụ nữ dùng trong những trường hợp lãnh cảm (frigidity) vì là nam nữ bình quyền mà.

   8. Bệnh loét tiêu hóa (peptic ulcer)
   Bệnh lở loét này thường xảy ra ở bao tử và ruột non.  Hai  khoa học gia người Úc Barry Marshall và Robin Warren, được giải  Nobel về y khoa năm 2005 vì họ đã tìm ra nguyên nhân gây ra gần 30% bệnh loét tiêu hóa là do các vi khuẩn Helicobacter Pylori. Do đó  các loại bệnh loét tiêu hóa  này được điều  trị nhanh chóng với thuốc trụ sinh.  Bệnh loét tiêu hóa rất thông thường xảy ra, nam nhiều hơn nữ, ở các xứ văn minh, tiến bộ, nơi mà mọi  người  bị căng thẳng (stress) hằng ngày vì cuộc sống.

   9. Tim nhân tạo
   Ai cũng biết bệnh tim là bệnh gây tử vong cao nhất trong tất cả các bệnh ở Hoa kỳ. Các khoa học gia nghiên cứu không ngừng để tìm cách hạ số tử vong này xuống, nhất là chế tạo các van (valves) nhân tạo để kiểm soát sự lưu thông của máu trong cơ thể.

   Năm 2004 FDA  đã chấp nhận trái tim nhân tạo đầu tiên do hãng Abiocor chế tạo. Trái tim nhân tạo này hiện nay được dùng cho những bệnh nhân quá yếu không thể chịu đựng được cuộc giải phẫu ghép tim (heart transplant) để có thể sống lâu hơn.

   10.  Áp dụng kỹ thuật điện toán vào lãnh vực chẩn đoán bệnh (Computer driven technology) 
   Nhờ có kỷ thuật điện toán áp dụng vào y khoa nên đã có nhiều phương pháp mới  để  chẩn đoán bệnh. Thí dụ:  Trong lãnh vực nội soi (endoscopy) bệnh nhân nuốt một  máy quay phim nhỏ bằng 1 viên thuốc vào bao tử xuống ruột non, ruột già để chụp hình nổi  ba chiều (3 dimensions) của các bộ phận đó, rồi chiếu lên màn ảnh của máy điện toán để bác sĩ chẩn đoán bệnh.

   Để tóm tắt, nếu chúng ta nhìn lại 10 năm trước, tức là năm 1996 khi chưa có các phát minh nói trên thì chúng ta mới thấy là chúng ta rất may mắn đã sống trong thời đại này, mà càng ngày càng có nhiều phương tiện, nhất là y khoa giúp cho chúng ta sống “tho” hơn và mạnh khỏe hơn.

» Related Articles: